Địa đạo Kỳ Anh, một trong ba địa đạo lớn nhất tại Việt Nam, không chỉ là một di tích lịch sử đáng tự hào mà còn là biểu tượng vững chắc của lòng yêu nước và sự hy sinh của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1964 – 1975). Nằm tại thôn Thạch Tân, xã Tam Thắng, thành phố Tam Kỳ, địa đạo Kỳ Anh đã chứng kiến và ghi dấu những trang sử vĩ đại của dân tộc.
Địa đạo Kỳ Anh, một trong ba địa đạo lớn nhất tại Việt Nam, không chỉ là một di tích lịch sử đáng tự hào mà còn là biểu tượng vững chắc của lòng yêu nước và sự hy sinh của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1964 – 1975). Nằm tại thôn Thạch Tân, xã Tam Thắng, thành phố Tam Kỳ, địa đạo Kỳ Anh đã chứng kiến và ghi dấu những trang sử vĩ đại của dân tộc.
From Wikipedia, the free encyclopedia
City in Quảng Nam Province, Vietnam
Tam Kỳ (listenⓘ) (IATA: TMK) is the capital city of Quảng Nam Province, in the South Central Coast of Vietnam. As of 2019 the city had a population of 122,374.[1]
The town was established in 1906 under the Nguyễn dynasty as an administrative and tax post.[2] During the Republic of Vietnam, the city was the main base of the US military in Quảng Nam Province (what was then Quảng Tín Province) for the war in Vietnam. The North Vietnamese captured the city on March 24, 1975.
In 1997, the local government under the Socialist Republic of Vietnam made it the capital of Quảng Nam province.[3]
Since then, there has been substantial development within the city. Tam Kỳ city is famous for Tam Kỳ chicken rice, which is recognized nationally, and many pristine beaches. In addition, Tam Kỳ city is also famous for Tam Kỳ noodles, which is known as My Quang.
The city is served by Tam Kỳ Railway Station, which is connected to all major cities across Vietnam. Da Nang International Airport is 70 km from the city, which is a one and a half hours' drive. The closer Chu Lai International Airport is 30 km away. There is a free daily shuttle bus between the airport and Quảng Ngãi city center. Other means of transportation include regular car and bus services.
Cơm gà Tam Kỳ, Tam Ky chicken rice
Wikimedia Commons has media related to
15°34′N 108°29′E / 15.567°N 108.483°E / 15.567; 108.483
Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Theo hệ thống tổ chức đơn vị hành chính dưới triều vua Thành Thái, năm 1905, tỉnh Quảng Nam có hai phủ là Thăng Bình và Điện Bàn, trong đó phủ Thăng Bình gồm 3 huyện là Quế Sơn, Lễ Dương và Hà Đông. Đến nay, hầu hết các tài liệu, công trình nghiên cứu đã xuất bản đều ghi huyện Hà Đông được nâng lên thành phủ vào năm 1906 (năm Thành Thái thứ 18), sau đó đổi tên thành Tam Kỳ; phủ lỵ chuyển từ xã Chiên Đàn vào thôn An Hòa, xã Tam Kỳ, nay di tích phủ đường vẫn còn sau khuôn viên UBND phường An Mỹ.
Để xác định thời điểm thành lập phủ Tam Kỳ như nói trên, có lẽ các bài viết, công trình nghiên cứu đã xuất bản đều dựa vào sách Đại Nam nhất thống nhất chí (quyển thứ 5) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bằng chữ Hán dưới triều vua Duy Tân. Đại Nam nhất thống nhất chí được viết theo thể loại địa chí, giới thiệu khái quát về quá trình thành lập của tỉnh Quảng Nam cũng như các huyện, phủ trong tỉnh bấy giờ; những nét cơ bản về hình thế, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu, hộ khẩu, sơn xuyên, khe đầm, cổ tích, lăng mộ, nhân vật…
Viết về sự thay đổi địa giới và tên gọi đơn vị hành chính tỉnh Quảng Nam và phủ Tam Kỳ, Đại Nam nhất thống nhất chí (Tư Trai Nguyễn Tạo dịch sang Quốc ngữ, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1964) viết: “Năm 18 (1906) cải huyện Hà Đông làm phủ Hà Đông, sau cải làm phủ Tam Kỳ kiêm lý cả huyện Hà Đông” (tr.7), “Năm Thành Thái thứ 18 (1906) thăng lên làm phủ, mới đặt chức Tri phủ, đổi làm Tam Kỳ phủ kiêm lý huyện Hà Đông; nay lãnh 1 huyện” (tr.12).
Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu, công trình nghiên cứu đã xuất bản không ghi thời điểm cụ thể nào của năm 1906 nâng huyện Hà Đông thành phủ Hà Đông và sau đó đổi tên thành Tam Kỳ. Sự khiếm khuyết này đã ảnh hưởng nhất định cho việc nghiên cứu, phân biệt tên gọi hành chính lúc giao thời giữa huyện Hà Đông, phủ Hà Đông, phủ Tam Kỳ và khi đặt trong mối quan hệ với các đơn vị trực thuộc phủ Hà Đông, phủ Tam Kỳ cũng như các đơn vị hành chính liên quan của tỉnh Quảng Nam. Cũng chính vì không có thời điểm cụ thể nên việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm thời điểm thành lập phủ Tam Kỳ trong thời gian qua thường ghi chung là năm 1906, không có ngày, ít ra là tháng.
Vậy phủ Tam Kỳ được thành lập vào thời gian cụ thể nào của năm 1906? Để có câu trả lời, bản thân người viết đã tham khảo nhiều tài liệu, trong đó có bộ lịch sử Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Nguyên bản bộ lịch sử này viết bằng chữ Hán, chưa từng được triều Nguyễn cho khắc in, càng chưa được dịch ra chữ Quốc ngữ nên đông đảo người đọc trong và ngoài nước còn chưa biết đến.
Bản thảo được dùng để phiên dịch và giới thiệu là văn bản chép tay duy nhất hiện được biết đến do nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh nhờ chụp lại ở Thư viện Trường Viễn Đông Bác Cổ (Paris, Pháp) và gửi về nước. Bản thảo này không có ở Việt Nam và cũng chưa có tài liệu nào trong nước nhắc đến. Cao Tự Thanh cũng người là dịch và giới thiệu nội dung công trình này (NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2012).
Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên chủ yếu ghi chép các sự kiện, lĩnh vực và quá trình vận động xã hội trên địa bàn các tỉnh thuộc Trung Kỳ, Bắc Kỳ trong 28 năm từ năm 1889-1916 và được chia thành 29 quyển, mỗi quyển tương ứng với một năm dưới triều vua Thành Thái (1889-1907) - 19 quyển, triều vua Duy Tân (1907-1916) - 10 quyển. Gọi là phụ biên vì được chép thêm vào sách Đại Nam Thực lục Chính biên viết về thời vua Đồng Khánh (1885-1889).
Thời điểm thành lập phủ Tam Kỳ được biên soạn trong quyển 18, cụ thể là năm Bính Ngọ - Thành Thái thứ 18 (1906): “Tháng 6. Đổi huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam làm phủ, vì một huyện địa thế rộng lớn dinh điền quá nhiều nên đổi làm phủ (ấn kiếm đồ kỷ của quan lại đều chiếu lệ phủ nha mà làm)” (tr. 501). Như vậy, việc đổi huyện thành phủ lúc này, ngoài Tam Kỳ còn có Tuy Phước, tỉnh Bình Định và lý do việc nâng huyện lên phủ là do địa bàn rộng, ruộng đất nhiều; thời điểm là tháng 6-1906.
Qua việc đổi huyện thành phủ cho thấy người Pháp và chính quyền Nam triều rất coi trọng địa bàn Tam Kỳ ở khu vực phía nam tỉnh Quảng Nam bấy giờ, không chỉ về diện tích rộng, dân số đông và mà còn cả về mặt chính trị, kinh tế, xã hội.
Về thời điểm chuyển tên Hà Đông thành Tam Kỳ, Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên không ghi cụ thể thời gian, nhưng qua các nội dung liên quan thì có thể xác định thời gian sớm nhất xuất hiện tên gọi phủ Tam Kỳ. Tại quyển 19, năm Đinh Mùi Thành Thái thứ 19 (1907), Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên ghi vào tháng 3: “Bãi đoản binh ở phủ hạt Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam. Trước năm Thành Thái thứ 12 vì dân Man quấy nhiễu nhiều nên chuẩn cho ba tổng Tiên Giang, Phước Lợi, Đức Hòa ở hạt ấy chọn người sung vào đoàn binh (mỗi tổng 100 người) để phòng bị.
Đến lúc này dân Man đã tạm yên ổn, quan tỉnh và Trú Sứ tỉnh ấy nghĩ xin triệt bãi (số đoản binh ấy cho trở về tráng hạng, chịu thuế, bắt đầu từ năm sau), bộ Hộ tâu lên, chuẩn cho thi hành” (tr. 519). Trú Sứ tức là Viên Công sứ người Pháp ở Quảng Nam. Tiếp theo, vào tháng 4, Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên một lần nữa nhắc đến Tam Kỳ: “Quan tỉnh Quảng Nam báo về tình hình bệnh tật (dân gian nhiều người phát bệnh thương hàn, về sau sinh ra sốt rét, hoặc bệnh nặng, hoặc chết; ở Quế Sơn, Thăng Bình là nặng nhất, Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Hòa Vang đỡ hơn Chuẩn trích tiền mua thuốc (ký ninh) chia cấp cho” (tr. 520-521). Như vậy, qua hai trích dẫn trên cho thấy ít ra đến tháng 3 năm Thành Thái thứ 19 - tháng 4- 1907, đã xuất hiện chữ Tam Kỳ gắn với tên gọi phủ (phủ hạt). Điều này cũng phù hợp với nhiều tài liệu, sách nghiên cứu đã xuất bản khi cho rằng sang năm 1907, đổi tên Hà Đông thành Tam Kỳ.
Tóm lại, qua Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên một lần nữa khẳng định phủ Tam Kỳ thành lập năm 1906 và đổi tên từ Hà Đông thành Tam Kỳ vào năm 1907. Đáng chú ý, qua bộ lịch sử trên đã xác định thời điểm cụ thể thành lập phủ Tam Kỳ là vào tháng 6 của năm Thành Thái thứ 18, tức tháng 7-1906 và đổi tên thành Tam Kỳ ít ra vào tháng 3 năm Thành Thái thứ 19, tức tháng 4-1907. Vấn đề còn lại là trên cơ sở này, chúng ta tiếp tục xác minh, làm rõ hơn ngày cụ thể chuyển huyện thành phủ và ngày đổi tên Hà Đông thành Tam Kỳ qua các tấu của quan lại tỉnh Quảng Nam, tấu của các bộ dưới triều Thành Thái và bút phê của vua Thành Thái.
Khi bấm tạo tài khoản bạn đã đồng ý với
Trước đây, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều lý giải nguồn gốc địa danh Tam Kỳ: Có người cho tên gọi Tam Kỳ chỉ vùng có ba cái cồn đất lớn (kỳ: cồn đất); có người cho là vùng có ba ngọn núi đất là Quảng Phú, An Hà và Trà Cai (kỳ: gò đất lớn); có người cho rằng do ở đây có ba ngả rẽ (kỳ: ngả rẽ) xuống biển, lên trung du và xuôi theo đường thiên lý.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần (trong Hội thảo “100 năm Phủ lỵ Tam Kỳ 1906 - 2006”) đã theo ghi chép của Lê Quý Đôn và của Quốc sử quán triều Nguyễn cho biết địa danh Tam Kỳ ở Quảng Nam từng được sử dụng để chỉ: (1) Tên của một con sông; (2) Tên của một bến đò; (3) Tên của một cái đầm; (4) Tên của một ngôi chợ; (5) Tên của một nhà dịch trạm; (6) Tên của một làng; (7) Tên của một xã; (8) Tên của một huyện; (9) Tên của một phủ; (10) Tên của một phủ lỵ; (11) Tên của một quận; (12) Tên của một quận lỵ; (13) Tên của một thị xã; (14) Tên của một thành phố.
Nhưng Nguyễn Khắc Thuần quên nhắc đến một tên quan trọng: đó là Ngã ba sông Tam Kỳ. Chính cái ngã ba sông này mới là khởi nguyên của tất cả tên/địa danh Tam Kỳ kể trên - tính từ xưa đến nay. Đọc các ghi chép trong sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn, thấy các tên Tam Kỳ giang (ở miền Bắc, miền Trung) và Ngũ Kỳ giang, Thất Kỳ giang (ở miền Nam) trong cả nước đều tương ứng với các vùng có các ngã ba, ngã năm, ngã bảy của các con sông. Từ đó, có thể suy, địa danh Tam Kỳ ở vùng Nam Quảng Nam có lẽ cũng có xuất xứ từ việc lấy ngã ba sông ở đây mà đặt tên.
Tên Tam Kỳ xuất hiện từ khi nào?
Trước Phủ biên tạp lục (PBTL) của Lê Quý Đôn, chưa có một thư tịch hoặc bản đồ nào ghi nhận tên Tam Kỳ. Tư liệu sớm nhất còn lưu ở vùng này có xuất xứ từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu ghi niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (tức năm 1699 đời vua Lê Huyền Tông) ghi địa danh xã ven ngã ba sông Tam Kỳ này là “vi tử tân lập Tam Kỳ xã”. Rồi đến thời chúa Nguyễn Phúc Thuần, trong một tư liệu ghi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 (năm 1766 đời vua Lê Huyền Tông), Tam Kỳ được ghi nhận là tên một xã lệ vào “thuộc Nội phủ Liêm hộ” của phủ Thăng Hoa.
Các chúa Nguyễn thời ấy, nắm quyền ở Đàng Trong nhưng đều lấy hiệu của các vua Lê để “hiệu lệnh thiên hạ”. Vì vậy, xét niên hiệu ghi trong các văn bản kể trên, có thể thấy tính khả tín rất cao. Nói khác đi, đến cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18 đã thấy tên Tam Kỳ xuất hiện trên văn bản hành chính. Điều đó có nghĩa là quá trình lập địa hiệu Tam Kỳ phải diễn ra trước đó ít nhất gần cả trăm năm. Gia phả các tộc tiền hiền ở xã Tam Kỳ xưa cho biết các vị thủy tổ của họ đã vào vùng ngã ba sông Tam Kỳ từ cuối thế kỷ 16.
Tam Kỳ nói riêng và Tam Kỳ nói chung
Từ đầu thế kỷ 20 trở về trước, địa danh Tam Kỳ chỉ dùng khu biệt để chỉ “xã Tam Kỳ” (tức phạm vi các phường Hòa Hương, Phước Hòa, An Xuân và một phần phường An Mỹ của TP.Tam Kỳ hiện nay). Xã/làng Tam Kỳ đó thuộc về tổng Chiên Đàn, huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa (sau đổi là Thăng Bình) của tỉnh Quảng Nam.
Đến năm 1906, huyện Hà Đông được tách ra khỏi phủ Thăng Bình để nâng lên thành phủ Hà Đông (sau đổi thành phủ Tam Kỳ) và không lâu sau đó phủ lỵ được dời về đặt tại xã Tam Kỳ. Từ đó, trong dân gian, Tam Kỳ được hàm hai nghĩa rộng hẹp khác nhau. Với nghĩa hẹp, Tam Kỳ là một xã phủ lỵ; với nghĩa rộng, Tam Kỳ là một phủ gồm nhiều tổng mà ngày nay bao gồm các huyện Núi Thành, Bắc Trà My, Tiên Phước, Phú Ninh và TP.Tam Kỳ. Tuy vậy, trước Cách mạng Tháng Tám 1945, khi nói đến địa danh Tam Kỳ thì ai cũng hiểu đó là nói “Tam Kỳ hẹp”.
Từ “vi tử Tam Kỳ” đến “vi tử Tam Kỳ tân lập xã” đến “xã Tam Kỳ”, tên gọi tuy có khác, nhưng theo các tư liệu ruộng đất hiện còn ở địa phương, địa giới của vùng đất này không đổi: phía nam và đông nam giáp sông Tam Kỳ, phía tây nam giáp xã Dưỡng An, phía tây giáp xã Đá Bạc, phía bắc giáp một nhánh nữa của sông Tam Kỳ. Tứ cận ấy đã được địa bạ thời Gia Long ghi rất rõ.
Xã Tam Kỳ xưa nằm ven đường thiên lý; từ phía bắc vào có cống Suối Đá (được ghi tên trong sách PBTL). Cống ấy nay gọi là cống Ngân hàng vì cạnh đấy, có trụ sở một ngân hàng tư nhân từ trước năm 1975. Gần đến sông Tam Kỳ có nhà dịch trạm Tam Kỳ (nay gần khu vực chùa Tịnh Độ). Bến tuần đò sông Tam Kỳ (được nhắc đến trong sách PBTL) nay nằm giữa cầu cũ và cầu mới Tam Kỳ. Đối diện bến ấy là làng Khương Mỹ - nơi có ba ngọn tháp Chăm được nhiều người biết.
Xã Tam Kỳ xưa có một công trình trị thủy rất nổi tiếng. Đó là con đường đắp chặn một nhánh sông Tam Kỳ để nối ấp Hương Trà (thuộc xã Tam Kỳ) - nằm trên một cồn đất giữa sông với đường thiên lý. Con đường đắp này được trồng cây cừa, cây sưa để giữ chân. Về sau, sưa, cừa mọc sum sê nên có tên là Vườn Cừa. Nơi đây về sau trở thành thắng cảnh với hàng vài chục gốc sưa già hàng năm trổ hoa vàng rực rỡ, thơm ngát.
Tam Kỳ xưa có một vị trí đặc biệt, được cho là nền một tháp Chăm đã đổ (vì căn cứ vào gạch đá, tượng, di tích còn lại), trên ấy người xưa xây một miếu Quan Thánh đế quân (còn gọi là Chùa Ông), nay còn một tượng Quan Công. Về sau, hào lý xã Tam Kỳ đã cho dời đình làng Tam Kỳ về đặt ngay trước miếu này. Chư vị tiền hiền xã Tam Kỳ được cung nghinh thờ ở đình (sau này gọi là đình làng Hương Trà). Sự gặp gỡ của ba yếu tố văn hóa Chăm, Hoa, Việt thể hiện rất rõ trên các công trình ở cùng vị trí nói trên.
Ở ấp Hương Trà xã Tam Kỳ xưa có một ngôi mộ gắn liền với câu chuyện huyền hoặc “Thầy Lánh” nổi tiếng ở Nam Quảng Nam: Đó là ngôi mộ được cho là nơi chôn chiếc giày của Thầy Lánh đánh rơi khi nhân vật huyền thoại này cỡi rồng bay vào Nam để tránh bị triều đình xử tội. Trên tấm bia trước mộ ghi đây chính là mộ người (Bích Nhãn tôn sư Nguyễn Đức Lánh tiên sinh thần mộ); nhưng dân địa phương vẫn cứ cho đây là “ngôi mộ giày” và thường kể đi kể lại bao hành trạng “diệt ác, trừ gian, cứu dân nghèo” của nhân vật liên quan.
Về thăm TP.Tam Kỳ, tìm dấu tích xã Tam Kỳ xưa sẽ thấy còn khá nhiều di tích (mộ cổ, miếu thờ, nhà cổ, chuyện xưa…) cần được thống kê và khám phá.
Khi nói đến 2 chữ trại gà công nghiệp ở Mỹ , nghĩa là có sự liên quan của máy móc, thiết bị. Cụ thể trong nuôi gà ở Mỹ là bạn sẽ có hệ thống cung cấp thức ăn, nước uống, hệ thống ánh sáng sưởi ấp, thông gió..tất cả đều tự động.
Thêm vào đó, trại gà công nghiệp ở Mỹ có hệ thống máy tính để điều khiển, máy tính điều khiển trại gà này cũng sẽ kết nối đến máy tính cá nhân hay thiết bị thông minh khác của bạn
Khám phá các địa điểm du lịch ở Tam Kỳ là một hành trình đầy hứng khởi và phong phú cho những ai đam mê khám phá vẻ đẹp tự nhiên, di sản văn hóa và ẩm thực độc đáo của đất nước Việt Nam. Từ những bãi biển tuyệt đẹp đến những di tích lịch sử rực rỡ, Tam Kỳ không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những kỳ nghỉ dưỡng mà còn là nơi để trải nghiệm những hành trình khám phá đáng nhớ.